WHO: 50% các vấn đề sức khỏe tâm thần xảy ra trước tuổi 14, đừng bỏ qua 6 căn bệnh nguy hiểm này
Có
rất
nhiều
nguyên
nhân
dẫn
đến
các
vấn
đề
về
sức
khỏe
tâm
thần
ở
trẻ
trước
tuổi
14.
Trong
đó
phổ
biến
là
xung
đột
gia
đình
như
xung
đột
giữa
phụ
huynh,
xung
đột
tâm
lý
giữa
cha
mẹ
với
con
cái,
áp
lực
học
hành,
điều
kiện
kinh
tế,
môi
trường
theo
học...
Theo
báo
cáo
của
Tổ
chức
Y
tế
Thế
giới
năm
2021,
cứ
7
người
10
-
19
tuổi
thì
có
1
người
bị
rối
loạn
tâm
thần,
chiếm
13%
gánh
nặng
bệnh
tật
toàn
cầu
ở
nhóm
tuổi
này.
Tự
tử
là
nguyên
nhân
thứ
tư
gây
tử
vong
ở
lứa
tuổi
15
-
19.
Đặc
biệt,
có
khoảng
50%
các
vấn
đề
về
sức
khỏe
tâm
thần
xảy
ra
trước
tuổi
14
nhưng
lại
thường
ít
được
quan
tâm.
Trong
đó
có
6
rối
loạn
tâm
thần
thường
gặp
và
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng
đến
sức
khỏe,
quá
trình
trưởng
thành
của
trẻ
sau
đây:
1.
Rối
loạn
lo
âu
Nhìn
chung,
rối
loạn
lo
âu
là
sự
lo
sợ
quá
mức
trước
một
tình
huống
xảy
ra,
có
tính
chất
mơ
hồ,
vô
lý,
lặp
lại
và
kéo
dài,
ảnh
hưởng
tới
sự
thích
nghi
cuộc
sống.
Trong
đó,
rối
loạn
ám
ảnh
cưỡng
chế
(OCD),
ám
ảnh
xã
hội
và
rối
loạn
căng
thẳng
sau
chấn
thương
(PTSD)
cũng
được
phân
loại
vào
nhóm
rối
loạn
lo
âu.
Rối
loạn
lo
âu
rất
phổ
biến
và
có
thể
bắt
gặp
trong
nhiều
giai
đoạn
phát
triển
của
trẻ.
Ở
các
độ
tuổi
khác
nhau
sẽ
có
những
biểu
hiện
khác
nhau.
Ví
dụ
như
trẻ
sơ
sinh
thì
hay
giật
mình,
quấy
khóc,
dễ
cáu
kỉnh.
Trẻ
mầm
non
có
thể
sợ
hãi,
không
muốn
rời
xa
cha
mẹ,
luôn
nhút
nhát
và
có
thể
kèm
theo
chán
ăn,
quấy
khóc,
rối
loạn
giấc
ngủ.
Hay
trẻ
trong
độ
tuổi
đi
học
hoặc
vị
thành
niên
thiếu
tập
trung
trong
lớp,
học
lực
sa
sút,
sợ
giao
tiếp
với
bạn
cùng
lớp
và
giáo
viên.
Có
thể
hay
xung
đột
với
các
bạn
trong
lớp
do
lo
lắng,
xung
đột
tâm
lý
với
người
lớn,
bỏ
nhà
đi.
2.
Rối
loạn
ăn
uống
Rối
loạn
ăn
uống
ở
trẻ
được
định
nghĩa
là
tình
trạng
trẻ
gặp
vấn
đề
về
cách
ăn
uống
liên
quan
về
mặt
tâm
lý,
không
phải
do
thức
ăn.
Nó
gây
ra
các
bất
thường
về
ăn
uống
chẳng
hạn
như
chán
ăn
và
chứng
ăn
vô
độ,
hoặc
cũng
có
thể
là
mối
bận
tâm
quá
độ
với
đồ
ăn
hay
cân
nặng,
hình
dáng
cơ
thể.
Ảnh
minh
họa
Bệnh
này
thường
xuất
hiện
nhiều
hơn
khi
trẻ
bước
vào
giai
đoạn
dậy
thì.
Nó
gây
ảnh
hưởng
đến
sức
khỏe,
cảm
xúc
và
mối
quan
hệ
của
trẻ.
Thậm
chí,
nó
có
thể
dẫn
đến
tử
vong
sớm,
thường
do
các
biến
chứng
y
tế
hoặc
tự
tử,
và
có
tỷ
lệ
tử
vong
cao
hơn
bất
kỳ
rối
loạn
tâm
thần
nào
khác.
3.
Rối
loạn
tăng
động
giảm
chú
ý
(ADHD)
Rối
loạn
tăng
động
giảm
chú
ý
là
1
rối
loạn
sinh
học
thần
kinh,
đặc
trưng
bởi
giảm
tập
trung
chú
ý
rõ
rệt
kết
hợp
với
tăng
hoạt
động
quá
mức,
thiếu
kiềm
chế.
Theo
WHO,
có
khoảng
4
-
6%
trẻ
em
trên
toàn
thế
giới
gặp
vấn
đề
này.
Đặc
biệt,
bệnh
thường
phổ
biến
ở
trẻ
nhỏ,
dưới
14
tuổi
hơn
trẻ
vị
thành
niên
và
tỷ
lệ
mắc
ở
bé
trai
cao
hơn
3
lần
bé
gái.
Có
3
thể
bệnh,
bao
gồm
thể
tăng
động,
xung
động
nổi
trội;
thể
giảm
chú
ý
nổi
trội
và
thể
kết
hợp
cả
tăng
động
và
giảm
chú
ý.
Bệnh
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
sinh
hoạt
hằng
ngày,
giao
tiếp,
học
hành
và
thậm
chí
có
thể
dẫn
đến
hành
vi
phạm
tội.
Vì
vậy,
các
bậc
phụ
huynh
cần
chú
ý
đến
các
dấu
hiệu
nhận
biết
đặc
trưng
để
phát
hiện
kịp
thời.
Các
biểu
hiện
giảm
chú
ý
phổ
biến
như
khó
tập
trung
lâu,
dễ
bị
ảnh
hưởng
bởi
yếu
tố
bên
ngoài,
khó
làm
theo
hướng
dẫn,
hay
quên
hoặc
mất
đồ,
không
thích
hoạt
động
tư
duy…
Còn
các
biểu
hiện
tăng
hoạt
động
thường
gặp
là
hay
bồn
chồn,
luôn
cử
động
chân
tay,
nói
quá
nhiều,
trả
lời
bộc
phát,
hay
chen
ngang
vào
hội
thoại
hoặc
công
việc
của
người
khác….
4.
Tự
kỷ
Tự
kỷ
là
một
tập
hợp
các
rối
loạn
phát
triển
lan
tỏa
ở
mức
độ
khác
nhau
từ
nhẹ
đến
nặng,
có
thể
khởi
phát
sớm
từ
khi
trẻ
trước
3
tuổi
và
diễn
biến
kéo
dài.
Trẻ
trai
bị
nhiều
hơn
trẻ
gái
từ
4
đến
6
lần.
Biểu
hiện
chung
của
bệnh
tự
kỷ
bao
gồm
những
khiếm
khuyết
trong
3
lĩnh
vực
là
kém
tương
tác
xã
hội,
kém
giao
tiếp
và
hành
vi
bất
thường.
Bên
cạnh
đó
trẻ
thường
có
rối
loạn
cảm
giác.
Nhiều
trẻ
tự
kỷ
có
kèm
theo
tăng
động
và
trí
tuệ
kém.
Khoảng
3/4
số
bệnh
nhân
có
kèm
theo
chậm
phát
triển
trí
tuệ
ràng
buộc
và
một
số
trẻ
em
có
khả
năng
tốt
hơn
ở
một
số
khía
cạnh
trong
cảnh
chậm
phát
triển
trí
tuệ
nói
chung.
5.
Rối
loạn
trầm
cảm
Rối
loạn
trầm
cảm
được
đặc
trưng
bởi
nỗi
buồn
hoặc
khó
chịu
nghiêm
trọng
hoặc
dai
dẳng,
đủ
để
ảnh
hưởng
đến
tâm
lý,
hành
vi
và
sức
khỏe
tổng
thể.
Bệnh
lý
này
có
thể
xảy
ra
ở
mọi
lứa
tuổi
nhưng
phổ
biến
hơn
là
trong
và
sau
giai
đoạn
dậy
thì.
Biểu
hiện
là
trẻ
luôn
buồn
bã,
dễ
khóc,
mệt
mỏi,
mất
quan
tâm
hoặc
thích
thú
trong
hầu
hết
các
hoạt
động.
Trẻ
thường
bị
thiếu
cân,
bất
thường
về
ăn
uống
như
giảm
hoặc
tăng
cảm
giác
thèm
ăn.
Có
thể
hay
mất
ngủ
hoặc
gặp
chứng
đau
nửa
đầu,
dễ
bị
kích
động,
giảm
khả
năng
tư
duy,
khó
đưa
ra
quyết
định
lựa
chọn,
luôn
thấy
mình
vô
dụng
hoặc
thậm
chí
là
nghĩ
đến
cái
chết
hoặc
cố
tự
tử.
Ảnh
minh
họa
6.
Bệnh
tâm
thần
phân
liệt
Tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em
là
một
rối
loạn
tâm
thần
không
phổ
biến
nhưng
là
bệnh
nghiêm
trọng.
Bệnh
liên
quan
đến
một
loạt
các
vấn
đề
về
suy
nghĩ
(nhận
thức),
hành
vi
hoặc
cảm
xúc.
Nó
có
thể
dẫn
đến
một
số
kết
hợp
của
ảo
giác,
ảo
tưởng,
suy
nghĩ
và
hành
vi
cực
kỳ
rối
loạn
làm
suy
giảm
khả
năng
hoạt
động
của
trẻ.
Tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em
về
cơ
bản
giống
như
tâm
thần
phân
liệt
ở
người
lớn,
nhưng
nó
xuất
hiện
sớm,
có
tác
động
sâu
sắc
đến
hành
vi
và
sự
phát
triển
của
trẻ.
Với
tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em,
tuổi
khởi
phát
sớm
đưa
ra
những
thách
thức
đặc
biệt
trong
chẩn
đoán,
điều
trị,
giáo
dục,
phát
triển
cảm
xúc
và
xã
hội.
Nguồn
và
ảnh:
Sina,
WHO,
Asia
One
https://kenh14.vn/who-50-cac-van-de-suc-khoe-tam-than-xay-ra-truoc-tuoi-14-dung-bo-qua-6-can-benh-nguy-hiem-nay-20220711235754363.chn
/>
http://dlvr.it/T3Fl6x
rất
nhiều
nguyên
nhân
dẫn
đến
các
vấn
đề
về
sức
khỏe
tâm
thần
ở
trẻ
trước
tuổi
14.
Trong
đó
phổ
biến
là
xung
đột
gia
đình
như
xung
đột
giữa
phụ
huynh,
xung
đột
tâm
lý
giữa
cha
mẹ
với
con
cái,
áp
lực
học
hành,
điều
kiện
kinh
tế,
môi
trường
theo
học...
Theo
báo
cáo
của
Tổ
chức
Y
tế
Thế
giới
năm
2021,
cứ
7
người
10
-
19
tuổi
thì
có
1
người
bị
rối
loạn
tâm
thần,
chiếm
13%
gánh
nặng
bệnh
tật
toàn
cầu
ở
nhóm
tuổi
này.
Tự
tử
là
nguyên
nhân
thứ
tư
gây
tử
vong
ở
lứa
tuổi
15
-
19.
Đặc
biệt,
có
khoảng
50%
các
vấn
đề
về
sức
khỏe
tâm
thần
xảy
ra
trước
tuổi
14
nhưng
lại
thường
ít
được
quan
tâm.
Trong
đó
có
6
rối
loạn
tâm
thần
thường
gặp
và
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng
đến
sức
khỏe,
quá
trình
trưởng
thành
của
trẻ
sau
đây:
1.
Rối
loạn
lo
âu
Nhìn
chung,
rối
loạn
lo
âu
là
sự
lo
sợ
quá
mức
trước
một
tình
huống
xảy
ra,
có
tính
chất
mơ
hồ,
vô
lý,
lặp
lại
và
kéo
dài,
ảnh
hưởng
tới
sự
thích
nghi
cuộc
sống.
Trong
đó,
rối
loạn
ám
ảnh
cưỡng
chế
(OCD),
ám
ảnh
xã
hội
và
rối
loạn
căng
thẳng
sau
chấn
thương
(PTSD)
cũng
được
phân
loại
vào
nhóm
rối
loạn
lo
âu.
Rối
loạn
lo
âu
rất
phổ
biến
và
có
thể
bắt
gặp
trong
nhiều
giai
đoạn
phát
triển
của
trẻ.
Ở
các
độ
tuổi
khác
nhau
sẽ
có
những
biểu
hiện
khác
nhau.
Ví
dụ
như
trẻ
sơ
sinh
thì
hay
giật
mình,
quấy
khóc,
dễ
cáu
kỉnh.
Trẻ
mầm
non
có
thể
sợ
hãi,
không
muốn
rời
xa
cha
mẹ,
luôn
nhút
nhát
và
có
thể
kèm
theo
chán
ăn,
quấy
khóc,
rối
loạn
giấc
ngủ.
Hay
trẻ
trong
độ
tuổi
đi
học
hoặc
vị
thành
niên
thiếu
tập
trung
trong
lớp,
học
lực
sa
sút,
sợ
giao
tiếp
với
bạn
cùng
lớp
và
giáo
viên.
Có
thể
hay
xung
đột
với
các
bạn
trong
lớp
do
lo
lắng,
xung
đột
tâm
lý
với
người
lớn,
bỏ
nhà
đi.
2.
Rối
loạn
ăn
uống
Rối
loạn
ăn
uống
ở
trẻ
được
định
nghĩa
là
tình
trạng
trẻ
gặp
vấn
đề
về
cách
ăn
uống
liên
quan
về
mặt
tâm
lý,
không
phải
do
thức
ăn.
Nó
gây
ra
các
bất
thường
về
ăn
uống
chẳng
hạn
như
chán
ăn
và
chứng
ăn
vô
độ,
hoặc
cũng
có
thể
là
mối
bận
tâm
quá
độ
với
đồ
ăn
hay
cân
nặng,
hình
dáng
cơ
thể.
Ảnh
minh
họa
Bệnh
này
thường
xuất
hiện
nhiều
hơn
khi
trẻ
bước
vào
giai
đoạn
dậy
thì.
Nó
gây
ảnh
hưởng
đến
sức
khỏe,
cảm
xúc
và
mối
quan
hệ
của
trẻ.
Thậm
chí,
nó
có
thể
dẫn
đến
tử
vong
sớm,
thường
do
các
biến
chứng
y
tế
hoặc
tự
tử,
và
có
tỷ
lệ
tử
vong
cao
hơn
bất
kỳ
rối
loạn
tâm
thần
nào
khác.
3.
Rối
loạn
tăng
động
giảm
chú
ý
(ADHD)
Rối
loạn
tăng
động
giảm
chú
ý
là
1
rối
loạn
sinh
học
thần
kinh,
đặc
trưng
bởi
giảm
tập
trung
chú
ý
rõ
rệt
kết
hợp
với
tăng
hoạt
động
quá
mức,
thiếu
kiềm
chế.
Theo
WHO,
có
khoảng
4
-
6%
trẻ
em
trên
toàn
thế
giới
gặp
vấn
đề
này.
Đặc
biệt,
bệnh
thường
phổ
biến
ở
trẻ
nhỏ,
dưới
14
tuổi
hơn
trẻ
vị
thành
niên
và
tỷ
lệ
mắc
ở
bé
trai
cao
hơn
3
lần
bé
gái.
Có
3
thể
bệnh,
bao
gồm
thể
tăng
động,
xung
động
nổi
trội;
thể
giảm
chú
ý
nổi
trội
và
thể
kết
hợp
cả
tăng
động
và
giảm
chú
ý.
Bệnh
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
sinh
hoạt
hằng
ngày,
giao
tiếp,
học
hành
và
thậm
chí
có
thể
dẫn
đến
hành
vi
phạm
tội.
Vì
vậy,
các
bậc
phụ
huynh
cần
chú
ý
đến
các
dấu
hiệu
nhận
biết
đặc
trưng
để
phát
hiện
kịp
thời.
Các
biểu
hiện
giảm
chú
ý
phổ
biến
như
khó
tập
trung
lâu,
dễ
bị
ảnh
hưởng
bởi
yếu
tố
bên
ngoài,
khó
làm
theo
hướng
dẫn,
hay
quên
hoặc
mất
đồ,
không
thích
hoạt
động
tư
duy…
Còn
các
biểu
hiện
tăng
hoạt
động
thường
gặp
là
hay
bồn
chồn,
luôn
cử
động
chân
tay,
nói
quá
nhiều,
trả
lời
bộc
phát,
hay
chen
ngang
vào
hội
thoại
hoặc
công
việc
của
người
khác….
4.
Tự
kỷ
Tự
kỷ
là
một
tập
hợp
các
rối
loạn
phát
triển
lan
tỏa
ở
mức
độ
khác
nhau
từ
nhẹ
đến
nặng,
có
thể
khởi
phát
sớm
từ
khi
trẻ
trước
3
tuổi
và
diễn
biến
kéo
dài.
Trẻ
trai
bị
nhiều
hơn
trẻ
gái
từ
4
đến
6
lần.
Biểu
hiện
chung
của
bệnh
tự
kỷ
bao
gồm
những
khiếm
khuyết
trong
3
lĩnh
vực
là
kém
tương
tác
xã
hội,
kém
giao
tiếp
và
hành
vi
bất
thường.
Bên
cạnh
đó
trẻ
thường
có
rối
loạn
cảm
giác.
Nhiều
trẻ
tự
kỷ
có
kèm
theo
tăng
động
và
trí
tuệ
kém.
Khoảng
3/4
số
bệnh
nhân
có
kèm
theo
chậm
phát
triển
trí
tuệ
ràng
buộc
và
một
số
trẻ
em
có
khả
năng
tốt
hơn
ở
một
số
khía
cạnh
trong
cảnh
chậm
phát
triển
trí
tuệ
nói
chung.
5.
Rối
loạn
trầm
cảm
Rối
loạn
trầm
cảm
được
đặc
trưng
bởi
nỗi
buồn
hoặc
khó
chịu
nghiêm
trọng
hoặc
dai
dẳng,
đủ
để
ảnh
hưởng
đến
tâm
lý,
hành
vi
và
sức
khỏe
tổng
thể.
Bệnh
lý
này
có
thể
xảy
ra
ở
mọi
lứa
tuổi
nhưng
phổ
biến
hơn
là
trong
và
sau
giai
đoạn
dậy
thì.
Biểu
hiện
là
trẻ
luôn
buồn
bã,
dễ
khóc,
mệt
mỏi,
mất
quan
tâm
hoặc
thích
thú
trong
hầu
hết
các
hoạt
động.
Trẻ
thường
bị
thiếu
cân,
bất
thường
về
ăn
uống
như
giảm
hoặc
tăng
cảm
giác
thèm
ăn.
Có
thể
hay
mất
ngủ
hoặc
gặp
chứng
đau
nửa
đầu,
dễ
bị
kích
động,
giảm
khả
năng
tư
duy,
khó
đưa
ra
quyết
định
lựa
chọn,
luôn
thấy
mình
vô
dụng
hoặc
thậm
chí
là
nghĩ
đến
cái
chết
hoặc
cố
tự
tử.
Ảnh
minh
họa
6.
Bệnh
tâm
thần
phân
liệt
Tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em
là
một
rối
loạn
tâm
thần
không
phổ
biến
nhưng
là
bệnh
nghiêm
trọng.
Bệnh
liên
quan
đến
một
loạt
các
vấn
đề
về
suy
nghĩ
(nhận
thức),
hành
vi
hoặc
cảm
xúc.
Nó
có
thể
dẫn
đến
một
số
kết
hợp
của
ảo
giác,
ảo
tưởng,
suy
nghĩ
và
hành
vi
cực
kỳ
rối
loạn
làm
suy
giảm
khả
năng
hoạt
động
của
trẻ.
Tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em
về
cơ
bản
giống
như
tâm
thần
phân
liệt
ở
người
lớn,
nhưng
nó
xuất
hiện
sớm,
có
tác
động
sâu
sắc
đến
hành
vi
và
sự
phát
triển
của
trẻ.
Với
tâm
thần
phân
liệt
ở
trẻ
em,
tuổi
khởi
phát
sớm
đưa
ra
những
thách
thức
đặc
biệt
trong
chẩn
đoán,
điều
trị,
giáo
dục,
phát
triển
cảm
xúc
và
xã
hội.
Nguồn
và
ảnh:
Sina,
WHO,
Asia
One
https://kenh14.vn/who-50-cac-van-de-suc-khoe-tam-than-xay-ra-truoc-tuoi-14-dung-bo-qua-6-can-benh-nguy-hiem-nay-20220711235754363.chn
/>
http://dlvr.it/T3Fl6x
No comments